Y học phương Đông chẩn bệnh như thế nào?

Y học phương Tây, hay y học hiện đại hình thành từ thực nghiệm, nghiên cứu và phân tích, chứng tỏ. Thí dụ mổ phanh ra xem có những cơ quan gì, rồi diễn đạt vị trí, kích cỡ những cơ quan đó : Hình thành bộ môn giải phẫu. Dùng thực nghiệm để tìm hiểu và khám phá công dụng từng cơ quan khi nó hoạt động giải trí thông thường hay khi bị bệnh. Từ đó hình thành bộ môn sinh lý thường và sinh lý bệnh .

Khi bị bệnh, nhận xét những triệu chứng biểu lộ ra ngoài như ho, sốt, không thở được, vàng da. v.v … Rồi lại mổ để nghiên cứu và phân tích tổn thương những cơ quan xem tim, gan, phổi … khác với thông thường thế nào từ đó hình thành bộ môn giải phẫu bệnh. Dùng vị thuốc diệt con ký sinh trùng, diệt con vi trùng đều có làm thực nghiệm xem thuốc đó ảnh hưởng tác động tới ký sinh trùng ( giun, sán ) hay vi trùng như thế nào. Từ đó mới sản sinh ra thuốc, hình thành bộ môn dược lý. Cũng qua thực nghiệm, người ta lý giải tại sao bị bệnh gọi là chính sách bệnh sinh .

Lúc đầu còn sơ khai, sau này khoa học tăng trưởng, y học được thừa kế cũng tăng trưởng theo con người, tò mò sâu về con người, biết sâu về bệnh tật, tìm ra nhiều cách chữa, cứu chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo. Đó là Y học tân tiến của những nước phương Tây ( Tây bán cầu ) hay còn gọi là Tây y. Có trường học, có chương trình để giảng dạy thầy thuốc .
Y học phương Đông hình thành từ thực tiễn đời sống. Con người phải sống, lao động, chịu ảnh hưởng tác động của môi trường tự nhiên vạn vật thiên nhiên như không khí, đất, thực phẩm, nước. Có lẽ lúc đầu từ lao động nhiều, căng thẳng mệt mỏi, con người biết vươn vai, xoa xoa bóp bóp thấy đỡ mệt, đỡ đau. Khi đói cần tìm lá, quả, củ để ăn. Có thứ ăn lăn ra chết, có thứ ăn vào bị nôn nao, có thứ ăn vào thấy khoẻ và lớn lên. Qua hàng ngàn đời truyền lại và tổng kết thứ gì tốt, thứ gì độc, thứ gì ăn hết đau, thứ gì uống hết sốt. v.v … Cứ như thế, đời trước truyền cho đời sau để duy trì và tăng trưởng nòi giống. Khi phát hiện ra lửa, con người biết nấu chín, dần biết chế biến thức ăn, uống, chế biến thuốc, bảo vệ nòi giống. Cũng từ thực tiễn, nhận xét thấy lạnh sinh bệnh gì, nóng sinh bệnh gì, ẩm thấp tác động ảnh hưởng đến sức khoẻ thế nào. Từ tổng kết ảnh hưởng tác động của vạn vật thiên nhiên, của nhà hàng siêu thị, mặt trái của lao động và thực phẩm mà phát hiện ra những nguyên do gây bệnh …
Khi con người có chữ viết, đã phát hiện ra những học thuyết : Âm dương – Ngũ hành, Kinh dịch … thì y học phương Đông có lý luận. Vậy là hình thành Y học phương Đông. Y học phương Đông được một số ít người tự tìm tòi trong đời sống, khám chữa bệnh, tự chế thuốc gọi là ông bà lang vườn. Có người được học giỏi Nho – Y – Lý số rồi khám chữa bệnh, hình thành những lương y. Khoảng 100 năm gần đây, những lương y mở trường đào tạo và giảng dạy và cũng đã đào tạo và giảng dạy những lương y thực thụ. Vậy ở xã hội ta có hai loại : một là người được huấn luyện và đào tạo có lý luận của y học phương Đông, một loại từ lượm lặt kinh nghiệm tay nghề, từ gia truyền cũng gọi là thầy thuốc, là lương y. Do vậy, đã đến lúc những nhà quản trị nên tìm những tên thích hợp cho những đối tượng người dùng trên kẻo xã hội dễ bị hiểu nhầm, nhất là thời đại kinh tế thị trường như thời nay. ( Trong từ điển : Lương y được định nghĩa là thầy thuốc giỏi, chứ không phải ai, cứ chữa bệnh gọi là lương y ). Y lý của Đông y quá thâm thúy, nhất là khi phối hợp với Kinh Dịch, thì số người hiểu để vận dụng hành nghề hoàn toàn có thể nói chỉ đếm trên đầu ngón tay dám cho mình là người hiểu biết y lý. Cách khám bệnh là một ví dụ .

Y học phương Đông khám bệnh như thế nào?

Khám theo trình tự : vọng, văn, vấn, thiết. Vọng là nhìn, là quan sát người đến khám bệnh, dáng đi, đứng có gù, vẹo, lệch, có gì không bình thường rồi nhận xét thần và sắc của người bệnh. U tối, sáng sủa, đau, buồn, bực tức, lo nghĩ … thần của vẻ mặt sẽ chỉ ra nguyên do và bệnh ở đâu. Sắc là sắc tố của da, niêm mạc sáng, đỏ, đen, vàng … mỗi màu là một bệnh. Xem răng, môi, lưỡi … Nhìn lưỡi nhận xét tổng thể và toàn diện lưỡi dày, mỏng dính, phía trên lưỡi có lớp rêu trắng hay vàng, đen, có dày hay mỏng dính. Dìa lưỡi có ngấn răng là bệu …. Sau đó xem đầu lưỡi, giữa lưỡi, cuống lưỡi có gì không bình thường. Dìa lưỡi bên phải khác dìa lưỡi bên trái … Tất cả những nhận xét trên cho thầy thuốc đánh giá và nhận định bệnh ở nông hay sâu, bệnh ở hàn hay nhiệt, bệnh ở cơ quan tạng phủ nào : tâm, can, tỳ, phế, thận. Ẩm thấp hay khô táo. Bệnh khó hay dễ chữa. Cũng từ nhận xét qua nhìn lưỡi, gợi ý nên chọn thức gì, phối hợp thuốc thế nào .

Vì những triệu chứng nhận xét của thầy thuốc và lời khai của bệnh nhân ( hay mái ấm gia đình ) thường mang tính chủ quan. Vì vậy, người xưa nhu yếu phải khám rất tỷ mỉ, phải đủ bốn bước, rồi mới được Kết luận. Phải so sánh bốn nhóm triệu chứng qua bốn bước, triệu chứng nào tương thích, triệu chứng nào giả. Sau vọng thần sắc là vọng bộ phận bị bệnh. Thí dụ, xem ngực, bụng, đầu, tóc, móng … xem sắc tố chất thải như đờm, nước tiểu, phân, kinh nguyệt .

Văn là nghe, ngửi. Nghe tiếng nói, tiếng ho, to hay nhỏ, tiếng rõ hay yếu; Ngửi mùi hơi thở hôi, chua; Mùi chất thải chua, tanh, hôi…

Vấn chẩn là hỏi bệnh. Hỏi nguyên do đi khám bệnh : do đau, do sốt, do nôn, do căng thẳng mệt mỏi, do mất ngủ, do ẩm thực ăn uống kém, do gầy sút … Thời gian bị bệnh bao lâu ? Các triệu chứng trên có tương quan đến nóng, lạnh, ẩm thấp ( thí dụ : lạnh ho tăng tương quan đến ăn, uống ). Cần hỏi những triệu chứng kèm theo. Thí dụ ho có sốt không, ho có khó thở, có táo bón ? hoặc đau vai có ho, có hạn chế hoạt động. v.v …
Thiết là sờ. Sờ da xem lạnh hay nóng, ẩm hay khô, sờ bộ phận bị bệnh : bụng, ngực … Sờ ấn những huyệt vị, đường kinh xem có gì không bình thường, ở đầu cuối mới bắt mạch. Người bệnh và thầy thuốc phải ngồi tự do, có bàn, có gối kê tay. Khi khám, thầy thuốc phải bình tĩnh … Nhận xét 6 bộ mạch ở hai tay tương quan đến những tạng phủ. Xem đặc thù của mạch : phù, trầm, căng, nhũn, đều hay loạn … Có 36 loại mạch, mỗi mạch ứng với một bệnh và bệnh thuộc tạng phủ nào .

Sau khi qua bốn bước khám bệnh ( vọng, văn, vấn, thiết ), thày thuốc tập hợp và suy luận để đưa ra Kết luận : Bệnh còn ở nông hay đã sâu vào tạng phủ, bệnh thuộc hàn hay nhiệt, bệnh mắc đã lâu hay mới, sức người bệnh còn khoẻ hay yếu, ở đầu cuối bệnh thuộc loại âm hay dương. Bệnh ở tạng phủ nào ? ( Tâm, can, tỳ, phế, thận … ) .

TÌm nguyên nhân gây ra bệnh :

Thời tiết, khí hậu trái thường. Do trạng thái tâm ý, tình cảm stress lê dài. Do trùng, quái vật cắn hay do chấn thương, chiến thương. Do nhà hàng siêu thị no đói thất thường hay do hoạt động và sinh hoạt bừa bãi .
Từ đó thầy thuốc mới gợi ý cách phòng bệnh và cách chữa cho người bệnh. Chữa bằng thuốc hay không dùng thuốc ( châm cứu, xoa bóp, rèn luyện, hoặc phối hợp cả hai ) .

PGS.TS Dương Trọng Hiếu

dùng thuốc ( châm cứu, xoa bóp, rèn luyện, hoặc phối hợp cả hai ) .

SHARE
+ Background: IT Engineer
+ Past: Pro. Internet Marketer | Brand Incident Risk Manager | Founder
+ Present: Invester & Trader